tháng 10 2013

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Bệnh trào ngược dạ dày - thực quản ở trẻ?



Bệnh trào ngược dạ dày - thực quản ở trẻ?


02:19:08, 21/01/2010
Con tôi đã 3 tháng tuổi. Lúc khoảng 2 tháng, khi siêu âm thì biết bé bị trào ngược dạ dày - thực quản. Đến nay, bé đã bớt nôn ói. Tuy nhiên ngay từ khi 1 tháng, sau khi bú sữa xong, bé thường hay thở khò khè nặng nhọc. Lúc không bú thì bình thường.
chichbongbh
Con tôi đã 3 tháng tuổi. Lúc khoảng 2 tháng, khi siêu âm thì biết bé bị trào ngược dạ dày - thực quản. Đến nay, bé đã bớt nôn ói. Tuy nhiên ngay từ khi 1 tháng, sau khi bú sữa xong, bé thường hay thở khò khè nặng nhọc. Lúc không bú thì bình thường.
Thỉnh thoảng bé hay "hước hước" lên, rồi ho. Tình trạng ho này cũng thỉnh thoảng xảy ra khi đang nằm chơi. Bé bú sữa bằng bình, sữa vắt của mẹ và sữa bột. Bác sĩ vui lòng cho tôi biết tình trạng của bé như vậy có bình thường không?
connanbh
Trào ngược dạ dày - thực quản là bệnh lý thường gặp ở trẻ nhỏ. Ngoài biểu hiện về mặt tiêu hóa như ọc sữa, bệnh có thể có biểu hiện hô hấp như trường hợp con anh, chị.
Các biểu hiện mà anh, chị mô tả nhiều khả năng liên quan đến trào ngược dạ dày - thực quản. Nếu không được điều trị, bệnh có thể ảnh hưởng đến đường hô hấp: Ho kéo dài, nhiễm trùng hô hấp tái phát, thậm chí có trường hợp có cơn tím tái - ngưng thở.
Vì vậy, anh chị nên đưa cháu đến cơ sở chuyên khoa để được điều trị thích hợp.
(Theo Vatgia.com)

Vì sao bé hay bị nôn trớ


Trẻ rất dễ bị nôn trớ đặc biệt là quá trình cho bú, cho ăn, đây là điều hoàn toàn bình thường và không có gì phải lo lắng. Tuy nhiên nếu bé có biểu hiện nôn thường xuyên và khó chịu thì bạn phải lưu ý tới các nguyên nhân sau đây và sớm đưa bé đi khám bác sĩ
Vì sao bé hay bị nôn trớ - Chăm sóc bé - Sức khỏe trẻ em - Trẻ bị nôn trớ

1. Trào ngược

Hay còn gọi là chứng trào ngược dạ dày, thực quản. Các bé thường bị trào ngược do van cơ (ở cuối đường ống dẫn thức ăn, có chức năng giữ thức ăn trong dạ dày) chưa hoàn thiện. Điều này thường do bụng của bé no, thực phẩm và axit có thể chạy trở lại đường ống dẫn thức ăn.
Trào ngược còn có thể khiến bé bị trớ sữa sau khi bú hoặc bị nấc. Hoặc khi bé ho, sữa (hay thức ăn) cũng có thể xuống "sai đường". Trường hợp này phần lớn cũng là bình thường với em bé của bạn và không cần phải lo lắng. Tuy nhiên, trường hợp nghiêm trọng hơn của trào ngược có thể làm bé thường xuyên bị nôn sau khi ăn, khiến bé khóc và ho rất nhiều.
Nếu em bé của bạn ăn uống không tốt và có vẻ khó chịu, bạn nên đưa bé đi khám. Bác sĩ có thể kê toa một chất làm đặc thức ăn, có thể thêm vào sữa mẹ hoặc sữa công thức hoặc thuống kháng axit.

2. Dị ứng hoặc không dung nạp sữa

Dị ứng có nghĩa là hệ thống miễn dịch của bé phản ứng với protein trong sữa mẹ hoặc sữa bột. Còn không dung nạp nghĩa là bé gặp khó khăn trong việc tiêu hóa protein có trong sữa. Nếu con bạn bị dị ứng hoặc không dung nạp sữa, bé có thể bị nôn sau khi ăn. Các dấu hiệu này có thể rất giống với trào ngược.
Em bé của bạn cũng có thể mắc bệnh chàm, đau bụng , tiêu chảy hoặc táo bón và không đạt trọng lượng đủ (không phát triển mạnh) nếu bị dị ứng hay bất dung nạp protein có trong sữa.
Nếu bạn lo lắng con bạn bị dị ứng hoặc không dung nạp đạm trong sữa, hãy hỏi bác sĩ về việc cắt giảm sữa bò trong chế độ ăn uống của người mẹ đang cho con bú. Hoặc nếu bé ăn sữa công thức, nên đổi cho bé sang loại sữa ít gây dị ứng.

3. Virus trong dạ dày

Nếu bé đột ngột bị nôn, bé có thể mang một loại virus như viêm ruột, viêm dạ dày, thường kèm theo tiêu chảy. Hãy đưa bé đi khám nếu bạn nghi ngờ con nhiễm virus trong dạ dày. Một số loại virus có thể được điều trị bằng kháng sinh.
Nôn trớ và tiêu chảy có thể khiến bé bị mất nước. Điều quan trọng là cần bù nước cho bé. Để làm điều này, có thể cho bé uống từng ngụm nước bù điện giải, cùng với sữa mẹ hoặc sữa công thức. Tránh cho bé uống nước quả hay đồ uống có gas.

4. Hẹp môn vị

Đây là tình trạng hiếm, có thể xuất hiện ở bé chỉ vài tuần tuổi. Hẹp môn vị khiến bé nôn liên tục trong vòng 1 tiếng đồng hồ. Hẹp môn vị xảy ra vì các cơ (điều khiển van từ dạ dày vào ruột) dày lên và không mở đủ để thức ăn đi qua. Hẹp môn vị có thể khắc phục đơn giản bằng phẫu thuật nhỏ. Hãy đưa bé đi khám nếu bạn nghi ngờ con bị hẹp môn vị.

5. Một bệnh hoặc nhiễm trùng

Em bé của bạn bị nôn có thể do nhiễm trùng hoặc bệnh tật. Bạn có thể quan sát các dấu hiệu khác của bệnh, chẳng hạn: bị sốt, mất cảm giác ngon miệng, dễ bị kích thích, phát ban, ho, nghẹt mũi… Nôn trớ có thể là một trong những dấu hiệu của cúm, sốt ban đỏ, nhiễm trùng đường tiểu, nhiễm trùng tai hoặc bệnh nghiêm trọng như viêm màng não. Hãy đưa bé đi khám nếu bé bị nôn kèm triệu chứng khác.

Giúp con bớt ho ban đêm


Mấy hôm nay trời lạnh, đêm nào đi ngủ, cu Mít cũng đã bị ho. Nhưng không hiểu sao, con chỉ bị ho buổi đêm mà thôi.
Giúp con bớt ho ban đêm - Chăm sóc bé - Bệnh về đường hô hấp ở trẻ em

Ho là triệu chứng thường gặp ở các bệnh đường hô hấp. Tuy nhiên, ho là phản xạ tốt giúp con tống đờm dãi, giúp làm sạch đường hô hấp.

Trẻ ho đêm vì nhiều lý do

Mấy hôm nay trời lạnh, đêm nào đi ngủ, cu Mít cũng đã bị ho. Nhưng không hiểu sao, con chỉ bị ho buổi đêm mà thôi. Mẹ Mít đi làm gọi điện về hỏi bà nội, bà bảo: "Cả ngày, chả nghe thấy Mít ho tiếng nào".
Mẹ Mít đưa con đi khám, tham khảo ý kiến của bác sỹ, mới thấy có nhiều lý do khiến bé có thể bị ho đêm.
Vào mùa lạnh, các bé dễ bị mắc các bệnh về đường hô hấp. Các bệnh này đều có chung đặc điểm như ho có đờm, ho sâu, tiếng ho khan và kèm sổ mũi. Để xác định rõ ràng bé bị ho do nguyên nhân gì, chỉ có thể nhờ bác sỹ thăm khám thì mới xác định rõ được.
Nhưng bé có thể cũng bị ho vì bé đi ngủ ngay sau khi ăn uống hoặc do ban ngày con trẻ vui đùa, chạy nhảy quá nhiều.
Với các bé bị ho về đêm, hoặc ho lúc ngủ trưa, sặc từng cơn, dẫn đến nôn trớ, theo bác sỹ Ngô Ngọc Liễn – Viện Tai mũi họng Trung ương cho biết, đây là triệu chứng của ho ngang. Bé bị ho do khi ngủ, nghỉ, con nằm trong tư thế ngang, do "trào ngược" dạ dày, thực quản.
Ho "ngang" thường xảy ra với các bé hay ăn uống sát giờ đi ngủ, thức ăn không kịp tiêu hóa cùng lượng dịch vị tiết ra nhiều hơn trong giấc ngủ, gây ứ, trướng dạ dầy. Sau một thời gian dài ăn uống đêm liên tục, các cơ của bé suy yếu, không khép kín được miệng trên của dạ dày, tạo đều kiện cho các chất dịch ứ trong dạ dày, trào ngược lên thực quản, rỉ ra họng, tràn vào thanh quản, gây ho sặc từng cơn.

Chăm sóc bé bị ho đêm

Đa số khi thấy con bị ho đêm, các bố mẹ thường áp dụng một số các bài thuốc dân gian để giúp con bớt ho. Có thể hấp mật ong với quất, mật ong với lá húng chanh, lá hẹ… chắt lấy nước cho con uống ngày 3 – 4 lần. Những cách này giúp cho bé giảm ho hiệu quả và lành tính.
Bên cạnh đó, bố mẹ hãy hạn chế cho con ăn uống sát giờ trước khi đi ngủ. Tốt nhất, giờ ăn và giờ ngủ của con cách nhau ít nhất một giờ đồng hồ. Trước khi cho con đi ngủ, hãy cho con uống một thìa mật ong ấm. Mật ong ấm sẽ giúp con hạn chế cơn ho, làm cơn ho dịu đi và giúp con ngủ ngon hơn. Các bố mẹ cũng lưu ý không dùng mật ong cho bé dưới 1 tuổi.
Khi ngủ, hãy kê cao gối cho con ngủ, đầu và vai cao hơn thân, ngăn đờm nhớt hay nước mũi chảy xuống họng. Hãy giữ ấm cho con khi ngủ, không hở bụng, hở tay dễ khiến con bị nhiễm lạnh và hôn nhiều hơn.
Nếu con bị ho nhiều, bố mẹ nên cho con uống nhiều nước, ăn cháo loãng, dễ tiêu, hạ chế ăn các loại thức ăn kích thích bé ho nhiều hơn như tôm, cua, ghẹ… Tránh cho con xa các môi trường ô nhiễm như nhiều khói thuốc, bụi đường… Điều này cũng khiến bé bị ho nhiều hơn.
Với các bé bị ho đêm kéo dài hơn 5 ngày, kèm theo các triệu chứng như sổ mũi, ho sâu, khó thở, đau bụng, bố mẹ nên đưa con đến khám bác sỹ. Tuyệt đối không sử dụng các loại kháng sinh và thuốc giảm ho cho con khi chưa có sự chỉ định của bác sỹ.

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Bé bị trào ngược dạ dày thực quản


Chào bác sĩ, xin bác sĩ tư vấn giúp em. Bé nhà em được 1 tuổi(trai) nặng 8.8kg cao 80cm(lúc sinh nặng 2.8kg), bé chỉ uống được sữa lúc ngủ, thức thì không chịu uống, bé rất làm biếng ăn, ép lắm bé chỉ ăn được khoảng 1/2 chén cháo nhỏ, có khi nôn ra hết không ăn được chút nào. Lúc nhỏ bé bị trào ngược dạ dày thực quản, giờ cũng giảm nhưng cũng hay bi oc sữa và nôn cháo.em nghe bác sĩ nói khi được 9 tháng tuổi thì tự khỏi và cho ăn cháo đặc thì ít hơn, giờ được 1 tuổi mà vẫn còn bị, và ăn cháo hay bị nôn. cho em hỏi, bị trào ngược dạ dày thực quản có ảnh hưởng gì tới bé hiện tại và sau này khi lớn lên không, làm cách nao để bé chịu ăn, uống sữa lúc thức, cân nặng và chiều cao như vậy có bị suy dinh dưỡng không. Cảm ơn bác sỹ nhiều, mong bác sỹ trả lời sớm.

Về hiện tượng trào ngược dạ dày, thực quản ở trẻ?


Hỏi: Bé nhà em 9 tháng tuổi, hay bị nôn trớ sau khi ăn xong. Em nghe mọi người nói bé bị trào ngược dạ dày, thực quản. Em muốn biết cụ thể hơn về vấn đề này?
Về hiện tượng trào ngược dạ dày, thực quản ở trẻ? - Góc tư vấn - Tư vấn chăm sóc trẻ em - Tư vấn sức khỏe trẻ em
Trả lời: Trào ngược dạ dày, thực quản là vấn đề về tiêu hóa thường gặp nhất ở trẻ nhỏ, nhất là trẻ sơ sinh và trẻ sinh thiếu tháng. Tuy nhiên, nó được xem như một hiện tượng sinh lý bình thường do sự phát triển còn non nớt của hệ tiêu hóa ở trẻ nhỏ.
Nếu hiện tượng này xảy ra trong thời gian ngắn, tần suất ít, sau ăn và không gây ra triệu chứng gì, được gọi là trào ngược sinh lý. Còn trào ngược bệnh lý có tần suất xảy ra thường xuyên hơn, kéo dài hơn và có thể gây ra triệu chứng lâm sàng với nhiều mức độ khác nhau.
Nếu bé dưới 6 tháng tuổi, một ngày bị trớ sữa vài lần nhưng chơi đùa, lên cân tốt, bú đều đặn, không bị khò khè tái đi tái lại… thì nhiều khả năng chỉ là trào ngược sinh lý, hiện tượng này sẽ thoái lui dần theo thời gian.
Nếu trẻ vẫn thường ọc sữa sau 1 tuổi, hoặc trẻ chậm lên cân, gầy gò, biếng ăn, sợ ăn, hay bị khò khè kéo dài đáp ứng kém với điều trị, viêm phổi tái phát nhiều lần… thì nhiều khả năng là trào ngược bệnh lý. Khi đó cần đưa trẻ đi khám để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Trào ngược dạ dày thực quản ở trẻ em chẩn đoán và điều trị


Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là tình trạng trào ngược các thành phần dịch từ dạ dày vào trong thực quản một cách không tự ý. Mọi người đều có trào ngược dạ dày thực quản một chút sau bữa ăn, điều đó xảy ra khi chúng ta ợ hơi để loại bỏ không khí được nuốt vào trong khi ăn.
Ở thời điểm đó, cơ vòng thực quản dưới dãn ra và cho phép các thành phần dịch trong dạ dày vào thực quản. Các giai đoạn đó xảy ra trong thời gian ngắn, tần suất ít, đặc biệt sau ăn và không gây ra triệu chứng gì, được gọi là trào ngược sinh lý. Còn trào ngược bệnh lý xảy ra thường xuyên hơn, kéo dài hơn và có thể gây ra triệu chứng lâm sàng với nhiều mức độ khác nhau. Tuy nhiên, khó phân biệt được trào ngược sinh lý và trào ngược bệnh lý.
Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, từ trẻ mới sinh cho đến người già (có thể chẩn đoán lầm thiếu máu cơ tim), nhưng thường gặp ở trẻ em, đặc biệt trẻ nhũ nhi và trẻ sơ sinh thiếu tháng.
Bệnh cảnh lâm sàng rất đa dạng và để chẩn đoán có nhiều phương tiện khác nhau và có độ nhạy, độ chuyên biệt khác nhau.

Bệnh sinh

Giải phẫu:

- Hàng rào chống trào ngược bao gồm cơ vòng thực quản dưới và những thành phần giải phẫu khác.
- Cơ vòng thực quản dưới có ngay từ lúc sinh, 3-7cm trên chỗ nối thực quản vào dạ dày. Đó là một dãi cơ trơn đặc biệt, tạo nên một vùng có áp lực cao, ngăn dòng trào ngược từ dạ dày, nó vẫn còn tiếp tục thay đổi vài tháng đầu sau sinh. Trong khi áp lực nội tại cơ vòng thực quản dưới bình thường, ở nhiều trẻ có sự dãn không thích hợp hoặc không đồng bộ gây trào ngược từng đợt. Ở một số trẻ, đặc biệt trẻ sinh non, trương lực cơ vòng thực quản dưới lúc nghỉ có thể giảm.
- Một yếu tố khác cũng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế trào ngược dạ dày thực quản ở trẻ em là giải phẫu học thực quản đoạn dưới và dạ dày. Ở trẻ sơ sinh, góc giữa dạ dày và thực quản là góc tù, khi tâm vị phát triển, góc này trở thành góc nhọn, đóng vai trò ngăn ngừa dòng trào ngược khi dạ dày căng to. Do đó trào ngược dạ dày thực quản xảy ra khi áp lực cơ vòng thực quản dưới giảm (bình thường P >12mmHg) hoặc khi cơ vòng thực quản dưới dãn tự phát hay không đồng bộ.
Những yếu tố làm giảm áp lực cơ vòng thực quản dưới:
  • Thức ăn: mỡ, chocolate, rượu, kẹo bạc hà, Nicotin, cafe, nước chanh.
  • Thuốc: ức chế Ca, Anticholinergic, Theophylline, Dopamin…

Những yếu tố cơ năng:

- Cơ vòng thực quản dưới không hiệu quả: tăng áp lực ổ bụng thoáng qua, vượt quá khả năng đối kháng của cơ vòng, đối với độ chênh áp giữa dạ dày và thực quản. Dãn thoáng qua không thích hợp.
- Chậm tống xuất dạ dày, góp phần gây trào ngược.
- Thay đổi độ thanh thải thực quản: khả năng dọn sạch thực quản, thời gian những chất có hại lưu lại trong thưc quản.
  • Ở bệnh nhân xơ cứng bì, lớp cơ trơn của cơ vòng thực quản dưới bị teo xơ hóa, làm mất khả năng của cơ vòng thực quản dưới và tắc nghẽn hoạt động sóng nhu động bình thường của nó.
  • Đặc biệt khi ngủ, sự nuốt giảm, những chất trào ngược lưu lại trong thực quản lâu hơn gây thủng lớp niêm mạc, tổn thương viêm, chít hẹp thực quản.
  • Ở tư thế đứng: chiều trọng lực và hoạt động sóng nhu động làm tăng độ thanh thải thực quản.
  • Về đêm, áp lực cơ vòng thực quản dưới tăng và hoạt động sóng nhu động thực quản ít, nếu trào ngược xảy ra thì nặng nề hơn.
- Một số tình huống lâm sàng dễ gây trào ngược dạ dày thực quản: như viêm thực quản, phẫu thuật sơ sinh (teo thực quản), bệnh lý não, ba NST 21, thoát vị thành bụng, thoát vị rốn, Mucovisidose… Cũng nên nhắc lại rằng trào ngược dạ dày thực quản gây viêm thực quản, nhưng viêm thực quản cũng gây ra và làm nặng hơn trào trào ngược dạ dày thực quản.

Thành phần và thể tích các chất gây trào ngược sẽ gây tổn thương lớp niêm mạc thực quản.

- Bình thường thực quản có cơ chế đề kháng và tự vệ. Chất nhày, Bicarbonat trong nước bọt có tác dụng trung hòa, các tuyến nhày ở thành thực quản, màng tế bào và những chất kết nối gian bào có tác dụng bảo vệ.
- Thành phần dịch trào ngược không chỉ có acide, còn có Pepsin và những Enzyme hủy đạm khác, muối mật và acide mật cũng gây tổn thương tế bào (tương tự như Aspirin).

Triệu chứng lâm sàng

Những biểu hiện điển hình: triệu chứng tiêu hoá

- Trớ, ọc sữa: xảy ra thụ động, không gắng sức, không có sự tham gia của cơ hoành, biểu hiện ợ sau ăn, dễ dàng xảy ra khi thay đổi tư thế.
- Ói: có kèm hoặc không ọc sữa, có sự tham gia của cơ hoành, có thể xảy ra 1 thời gian lâu sau bữa ăn hay bú, biểu hiện tống thức ăn hoặc dịch dạ dày, đôi khi làm cho trẻ khóc, nhưng nó thường xảy ra trước khi trẻ khóc.
- Nuốt khó và đau: Không dễ dàng chẩn đoán ở trẻ nhỏ, nhưng có thể tồn tại trong những ngày đầu của cuộc đời. Nó làm cho đứa trẻ tự ý bỏ bú và kèm theo khóc. Nội soi chứng minh được viêm thực quản với những mức độ khác nhau. Ở trẻ nhũ nhi, đau do trào ngược dạ dày thực quản, có thể gây rối loạn giấc ngủ kéo dài. Ở những trẻ lớn, có thể định vị chính xác vị trí đau sau xương ức và chúng có thể mô tả triệu chứng ợ nóng.
- Xuất huyết tiêu hóa: Biểu hiện chủ yếu trong những ngày đầu của cuộc đời, dưới dạng nôn ra máu ít quan trọng, đôi khi tiêu phân đen. Nó cũng có thể xảy ra trước sanh, chẩn đoán gợi ý dựa trên việc xác nhận nước ối có máu, mà nguyên nhân không do sản khoa. Nội soi có thể thực hiện sớm nhất sau sanh, phát hiện viêm thực quản nặng.
- Ảnh hưởng dinh dưỡng: Nếu những rối loạn kéo dài, nôn ói nhiều và từ chối ăn có thể gây chậm tăng trưởng, thiếu máu nhược sắc, cũng có thể xảy ra trong trường hợp chảy máu dưới mức lâm sàng.

Những biểu hiện không điển hình:

Thường là những triệu chứng về hô hấp và tai mũi họng:
- Ho mãn tính: ho về đêm không giải thích được, gợi ý nhất trào ngược dạ dày thực quản, nhưng xảy ra ban ngày cũng khá thường gặp, đặc biệt gợi ý khi cơn xảy ra lúc trẻ đang đùa giỡn, giảm đi hoặc biến mất khi trẻ yên tĩnh hay ngủ. Thường gặp trong những năm đầu của cuộc sống.
- Bệnh viêm phế quản phổi tắc nghẽn: thường gặp sau 2-3 tuổi, nhưng xảy ra ở trẻ nhũ nhi cũng không phải là ngoại lệ, thường kèm khò khè. Tiền căn rối loạn về tiêu hoá dễ dàng định hướng nguyên nhân trào ngược dạ dày thực quản, nhưng không tìm thấy 1 cách hằng định.
- Những ổ nhiễm trùng phổi tái phát, xơ phổi lan tỏa không rõ nguyên nhân. Hen phế quản không rõ nguyên nhân.
- Bệnh lý tai mũi họng tái phát: viêm xoang, viêm tai giữa…tái đi tái lại, không rõ nguyên nhân.

Những biểu hiện đáng lo ngại:

- Đột tử ở trẻ nhũ nhi.
- Những cơn "malasie" những cơn xanh tím đột ngột và thoáng qua, những cơn nhịp nhanh hoặc chậm, dạng giảm trương lực cơ, rối loạn vận mạch, những cơn ngừng thở, tai biến dạng co giật…malasie nặng dạng doạ đột tử.

Các phương tiện chẩn đoán trào ngược dạ dày thực quản

Trào ngược dạ dày thực quản ở trẻ em chẩn đoán và điều trị - Chăm sóc bé

Chụp dạ dày thực quản có cản quang (TOGD-Transit Oeso-Gastro-Duodenal):

Cho phép phân tích hình dạng thực quản và dạ dày, qua đó có thể thấy thoát vị khe thực quản, ruột xoay bất toàn… nhưng không chứng minh được viêm thực quản, không đánh giá được trào ngược bệnh lý có hay không.

Nội soi đường tiêu hoá trên (fibroscopie oes-gastro-duodenale)

Cho phép đánh giá và chứng minh viêm thực quản.

Đo áp lực cơ vòng thực quản dưới (Manométrie)

Cho phép đánh giá trương lực cơ vòng thực quản dưới, đặc tính sóng nhu động thực quản. Trên thực tế, phép đo này chỉ dùng ở những đơn vị chuyên biệt, nghiên cứu về cơ chế trào ngược.

Phép đo pH kế:

Được xem là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán trào ngược dạ dày thực quản từ năm 1979.
Trong suốt quá trình ghi pH, trẻ mang một hộp ghi, giống như đo Holter liên tục 24 giờ, trẻ vẫn sinh hoạt bình thường và bà mẹ cần ghi nhận thời điểm xảy ra những sự kiện hoặc những biểu hiện lâm sàng như thay đổi tả, cho ăn, ho, quấy khóc… Thành phần dịch trào lên thực quản thường rất acide và chứa pepsine, đôi khi dịch có tính kiềm đó là dịch dạ dày-tá tràng: acide mật và dịch tụy.
- Chỉ định:
  • Trước đây được thực hiện khi có triệu chứng tiêu hóa, nhưng ngày nay chỉ thực hiện khi có triệu chứng nôn trớ nặng, kháng trị liệu hoặc kèm kích thích, rối loạn giấc ngủ, thiếu máu hoặc rối loạn tiêu hóa (chán ăn, khó nuốt).
  • Có triệu chứng hô hấp và bilan khó ở (malaise) ở trẻ nhũ nhi.
- Kết quả:
Phân tích về lượng: Các chỉ số cần khảo sát bao gồm: % thời gian pH <4 (%pH 4), số lần trào ngược/giờ (NR/h), số lần trào ngược >5ph/giờ(NR+5/h), Sự kéo dài cơn trào ngược lâu nhất (DRPL), sự kéo dài trung bình cơn trào ngược trong đêm (DMRN), diện tích pH<4.
  • %pH 4 : đánh giá sự kéo dài dịch acide dạ dày ở thực quản. Thường được sử dụng nhất đánh giá về số lượng trào ngược, có độ chuyên biệt 94%, độ nhạy 100%. Khi % pH 4 >5% được xem là bệnh lý.
  • NR/h: cho phép đánh giá tần suất xảy ra RGO, được xem là bình thường khi NR/h < 0,8.
  • Diễn giải %pH 4 theo NR/h cho phép đánh giá độ thanh thải acide của thực quản, khả năng thực quản tống sạch acide. Độ thanh thải này rất thay đổi từ trẻ này sang trẻ khác, trên cùng 1 trẻ, nó cũng biến đổi theo tư thế, tình trạng thức-ngủ. Nó tùy thuộc chủ yếu vào nhu động thực quản, nước bọt. Trong trường hợp trào ngược dạ dày thực quản, nguy cơ xảy ra viêm thực quản khi độ thanh thải lớn.
  • NR+5/h : bình thường <0,2
  • DRPL: cho phép đánh giá mức độ nặng RGO, nguy cơ xảy ra viêm thực quản.
  • DMRN: dùng khảo sát khi có triệu chứng tiêu hóa.
Phân tích về chất:
  • Có liên quan giữa những cơn giảm pH thực quản với những triệu chứng xuất hiện. Khi pH kế thay đổi theo những biểu hiện hô hấp, chúng ta sẽ đánh giá sự tồn tại hay không mối liên quan giữa những cơn ho với biểu hiện giảm pH. Nếu ho xảy ra sau đợt giảm pH, chứng tỏ ho do trào ngược dạ dày thực quản và RGO thúc đẩy bệnh lý hô hấp, ngược lại, nếu ho xảy ra trước đợt pH giảm, có thể kết luận những cơn ho thúc đẩy trào ngược.
  • Nếu những cơn ho hoàn toàn độc lập với những đợt giảm pH có thể kết luận rằng trẻ có RGO và vấn đề hô hấp không liên quan.
  • Trong trường hợp trẻ biểu hiện kích thích hay khóc không giải thích được, cũng có thể phân tích tương tự trên pH kế. Đối với bilan malaise, thực hiện ghi cùng lúc nhịp tim, nhịp hô hấp và SaO2.
  • Nếu những đợt pH giảm không dẫn đến thay đổi nhịp tim và nhịp hô hấp, sẽ khó thiết lập mối liên quan giữa RGO và malaise.
  • Nếu đợt giảm pH dẫn đến nhanh hoặc chậm nhịp tim, đó là phản ứng bình thường đối với RGO, đặc biệt nếu tồn tại hiện tượng đau do viêm thực quản.
  • Ngược lại, nếu pH giảm, theo ngay sau chậm nhịp tim và hoặc chậm nhịp thở, RGO gây ra malaise.

Siêu âm:

- Siêu âm đã được mô tả cách nay 10 năm, nếu được thực hiện bởi những người đã được huấn luyện và kiên nhẫn, nó có lợi ích to lớn trong việc nghiên cứu trào ngược dạ dày thực quản bởi vì nó cho phép quan sát hình thể và động học của thực quản bụng – tâm vị, nó còn nghiên cứu những cơn trào ngược xảy ra bất chợt sau ăn mà thường không được nhận biết bởi đo pH kế, nó còn có lợi ích là nhanh, rẻ tiền, ít chấn thương và không ăn tia X. Với thời gian quan sát ngắn 10 phút.
- Phương tiện : Đầu dò 5-7.5 MHz, sector hay rẽ quạt tùy theo tuổi.
- Cách khám: Trẻ được nằm ngửa và thăm khám ngay sau bữa ăn, thường kèm theo bình sữa. Việc sử dụng bình nước cam cho bú dễ dàng quan sát cơn trào ngược DD-TQ nhưng dạng bữa ăn test này không phải bữa ăn sinh lý của trẻ nhũ nhi.
- Đầu dò được đặt ngay hỏm thượng vị, mặt cắt cạnh ức dọc, hơi nghiêng nhẹ theo trục thực quản đoạn bụng, cho phép nhìn thấy thực quản bụng, cơ hoành cắt ngang và dạ dày.
- Trên mặt cắt dọc, thực quản liên hệ với thùy trái gan ở phía trước, động mạch chủ và các nhánh của nó ở phía sau, tâm nhĩ phải ở phía trên còn dạ dày ở phía dưới.
- Trên mặt cắt ngang, thực quản bụng có hình bia, cũng như tất cả những phần khác của ống tiêu hóa, với phần trung tâm Echo dày(lớp niêm mạc), vùng trung gian Echo kém (lớp cơ), bao quanh bởi lớp Echo dày(lớp thanh mạc).

Bước I: Khảo sát hình thể:

- Đo chiều dài thực quản bụng (từ cơ hoành đến tâm vị).
  • Bình thường: 20-25 mm hoặc theo tuổi >16mm từ 0-2 tháng
  • >17mm từ 2 th- 2 tuổi
  • >18mm từ 2-5 tuổi
  • >19mm > 5 tuổi
  • Ý nghĩa: Khi chiều dài này bị rút ngắn lại, trẻ dễ có nguy cơ bị trào ngược dạ dày thực quản. Khi có sự rút ngắn đáng kể và hằng định, gợi ý bệnh lạc chỗ tâm phình vị, còn rút ngắn từng lúc cách hồi, gợi ý tâm vị di động (cardia mobile).
- Đo bề dày thực quản bụng:
  • Theo Pracros: chiều dày thực quản bụng bình thường 8-10mm, khi lớp niêm mạc vượt quá 4mm gợi ý viêm TQ.
  • Theo Dosseur: chiều dày TQ bụng là bệnh lý khi: >7mm – 0-2 th
  • >8mm – 2th-2 tuổi
  • >9mm – >2 tuổi
  • Ý nghĩa: Siêu âm cho phép chứng minh được viêm TQ bởi vì khi viêm sẽ dẫn đến sự gia tăng bề dày TQ.
Việc khảo sát hình thể còn cho phép loại trừ một số bệnh lý ngoại khoa gây nôn ói kéo dài như hẹp phì đại cơ môn vị, thoát vị khe, thực quản to, thực quản đôi, ruột xoay bất toàn, khối u gây chèn ép (u nội tại như Leimyoma, u bên ngoài chèn ép như u nguyên bào thần kinh, u quái trung thất, sự bất thường mạch máu (bất thường hồi lưu tĩnh mạch phổi về tim, tăng áp lực tĩnh mạch cửa, dãn tĩnh mạch thực quản).
Mặt khác sự tồn tại rối loạn nhu động tiền môn vị, chậm tống xuất dạ dày làm cho trào ngược dạ dày thực quản dễ xảy ra.

Bước II: Khảo sát động – Quan sát trong 10 phút

Siêu âm cho phép đánh giá nhu động TQ và sự mở của tâm vị cũng như cho phép nhìn thấy được dòng trào ngược.
Đầu dò được đặt ở vị trí giống như khảo sát hình thể, giữ vị trí cố định, quan sát và đếm số lần trào ngược và đánh giá mức quan trọng của trào ngược dựa trên thể tích dịch dạ dày trào lên thực quản và sự kéo dài của dòng trào ngược.
Có thể gợi ý 3 dạng trào ngược:
  • Trào ngược tối thiểu: trào ngược ngắn, ít quan trọng và còn giới hạn ở thực quản bụng.
  • Trào ngược rõ: trào ngược quan trọng và trào ngược lên TQ một cách rõ ràng.
  • Trào ngược nhiều: trào ngược rất quan trọng, kéo dài và thể hiện ra ngoài bởi sự ọc sữa.
Chỉ những dòng trào ngược rõ ràng và mạnh mới được tính.
Thời gian quan sát 3-20 phút, tùy tác giả, nhưng thực tế, quan sát trong 10 phút được cho là đủ và cần thiết.
Số lần trào ngược quan sát trong 10 phút, thay đổi theo tuổi:
Theo Dosseur, trào ngược bệnh lý khi:
  • >4 lần/10 phút đối với trẻ ≤ 2tháng
  • >3 lần ———-nt——-2tháng-2tuổi
  • >2 lần ———-nt——-2 – 5tuổi
  • >1 lần ———-nt——-> 5tuổi
Theo Gommes: . <1 tuổi :≤ 3 lần/10ph: sinh lý
  • 3-6 lần: rối loạn chức năng vừa phải
  • >6 lần: rối loạn chức năng nặng.

Vai trò siêu âm so với các phương tiện chẩn đoán khác


Phép đo pH kế 24 giờ:

- Đo pH thực quản, không thể chứng minh những dòng trào ngược không phải acide, đó chính là những lần trào ngược xảy ra sau ăn, nhất là trẻ dùng thức ăn sữa. Xạ hình và siêu âm cho phép nghiên cứu những lần trào ngược sau ăn.
- Siêu âm thấy và đếm được số lần trào ngược sau ăn, trào ngược sinh lý cũng thường xảy ra sau ăn, tuy nhiên không có giới hạn chính xác giữa trào ngược sinh lý và trào ngược bệnh lý.
- Nghiên cứu động chỉ khảo sát trong 10 phút sẽ bỏ qua tất cả những gì xảy ra trong thực quản trong 24 giờ còn lại, cũng như sự liên quan với những hoạt động chức năng, tình trạng thức-ngủ và những khác biệt về tư thế của trẻ. Hơn thế nữa, ngoài 10 phút khám, siêu âm không cho phép nghiên cứu 1 chút gì về chất lượng bệnh lý trào ngược (không đánh giá được sự liên quan giữa trào ngược với những triệu chứng học quan sát được như ho, khóc, rối loạn nhịp tim, rối loạn nhịp thở….).
- So sánh kết quả siêu âm và phép đo pH kế trong nghiên cứu trào ngược dạ dày thực quản rất khó bởi vì những giai đoạn nghiên cứu, những dữ kiện phân tích rất khác nhau ví dụ trào ngược sau ăn và trào ngược về đêm là 2 hiện tượng khác nhau hoàn toàn về cơ chế, bệnh học, pH và những hậu quả trên niêm mạc thực quản, phế quản, nhịp tim và những hành vi của trẻ.
- Tuy nhiên, theo một công trình nghiên cứu của các tác giả khoa nhi Đại học Graz-Austria (2), nghiên cứu so sánh siêu âm với phép đo pH kế và phép đo áp lực cơ vòng thực quản dưới, cho thấy siêu âm chẩn đoán trào ngược dạ dày thực quản có độ nhạy 100%, độ chuyên biệt 87.5% ( với p <0,001). Các tác giả gợi ý nên dùng siêu âm trong bước đầu khảo sát chẩn đoán ở bệnh ói.

Nội soi tiêu hóa trên:

- Không nhằm mục đích chẩn đoán trào ngược dạ dày thực quản, nó chỉ có thể chẩn đoán 1 cách gián tiếp, với sự xác định những tổn thương viêm thực quản, nếu nó có. Ngược lại, nội soi thực quản bình thường không cho phép loại bỏ chẩn đoán trào ngược dạ dày thực quản. Nội soi cho phép khảo sát hình thể đường tiêu hóa trên, nếu cần lấy mẫu sinh thiết để khảo sát mô học.

Xạ hình:

- Cho phép nghiên cứu sự kéo dài trào ngược sau ăn, cũng như chứng minh nhiễm trùng phế quản phổi do hít. Theo Wynchank S (3) kết quả chẩn đoán trào ngược dạ dày thực quản của siêu âm và xạ hình tương ứng nhau 91/110. Trong khi đó siêu âm rẻ tiền, dễ dàng thực hiện, không ăn tia, nghiên cứu chính xác hình thể học của thực quản bụng, tâm vị và môn vị.

Điều trị

- Điều trị chủ yếu nội khoa, chỉ can thiệp ngoại khoa khi có những bất thường giải phẫu đáng kể (thoát vị khe thực quản hay thoát vị dạ dày trong lồng ngực) những dạng có biến chứng, biểu hiện hô hấp mãn tính hay viêm thực quản thất bại với điều trị nội khoa.
- Trước tiên, phải lắng nghe để nhận biết chế độ ăn không thích hợp hiện tại, thái độ kích thích quá mức, sự không hài hòa trong thay đổi tả của bà mẹ và trẻ….
- Cho những lời khuyên đơn giản có giá trị phòng ngừa.
- Tôn trọng nhịp điệu riêng tư của trẻ, để trẻ bú những giờ không xác định trước đây, cho trẻ bú khi có nhu cầu, trong khi đó vẫn tôn trọng một số nguyên tắc, giữa 2 lần bú, để trẻ có thể nhận 6 bữa ăn mỗi ngày, khoảng thời gian tối thiểu 2 giờ và tối đa 4-5 giờ, nhu cầu thay đổi theo từng trẻ, trên cùng một trẻ cũng khác nhau trong ngày. Khi trẻ bú, không nên cho trẻ bú quá lâu, trung bình 10 phút cho vú thứ nhất và 20 phút cho vú thứ 2, bú trên 30 phút không có lợi cho trẻ (nuốt hơi, mệt, rối loạn thèm bú, chênh lệch thời gian bú) cũng như bà mẹ (tổn thương da quầng vú, nứt) cũng không nên đề nghị cùng một tỉ lệ như nhau giữa trẻ 4250gr với trẻ 2500gr, tính toán tỉ lệ tùy theo cân trọng lúc sinh và không có công thức chuẩn. Khi trẻ khóc, không có nghĩa là trẻ đói hay trẻ đau, có thể chỉ là mong được mẹ ẵm bồng.

Điều trị nội khoa: gồm 4 mục đích

- Duy trì bữa ăn theo dung tích dạ dày.
- Bảo vệ niêm mạc thực quản đối với dịch acide hay những thành phần dịch mật chưa được trung hòa.
- Hỗ trợ sự tống dạ dày-hang môn vị.
- Tăng áp lực cơ vòng thực quản dưới.
Những biện pháp điều trị hỗ trợ:
  • Chế độ ăn,
  • Tư thế,
  • Bảo vệ niêm mạc thực quản,
  • Ức chế hay kìm hãm sự bài tiết acide,
  • Tăng cường áp lực cơ vòng thực quản dưới,
Các bước điều trị:
Bước 1: Trào ngược đơn thuần, không biến chứng, thời gian 1-2 tuần
- Tư thế: Nên được thực hiện lúc nghỉ, đặc biệt trong lúc ngủ. Nằm sấp, đầu nâng cao, nghiêng 20-30 độ, hay nằm nghiêng phải có lợi cho việc tống sạch dạ dày vẫn còn được ưa chuộng, còn trẻ ngồi trên ghế không hiệu quả.
- Chế độ ăn:
  • Chia nhỏ bữa ăn, tránh ăn quá no và tăng số cữ sẽ cải thiện triệu chứng.
  • Làm đặc thức ăn còn bàn cãi, bởi biến đổi ít trên biểu đồ pH kế, vẫn còn rất hữu ích trên lâm sàng.
  • Chế độ ăn ít mỡ, tránh chocolat, café, trà, cocacola, thức ăn nhiều gia vị. Thuốc lá cũng nên ngưng. Bữa ăn tối nên hạn chế. Giảm cân là cơ baûn điều trị ở người lớn, nhưng không được khuyến cáo ở trẻ em, trừ khi chúng bị béo phì.
  • Những loại thuốc làm giảm áp lực cơ vòng thực quản dưới (nhóm xanthines) nên được tránh khi có thể.
- Thuốc antacid: Thuốc bảo vệ niêm mạc thực quản
  • Những loại thuốc kháng acid trung hòa ion H+ của dịch dạ dày.
  • Những dung dịch hydroxydes aluminium, magnesium và phosphates aluminium nên cho 30 phút sau bữa ăn và trước khi đi ngủ (1-2ml/kg/ngày) không vuợt quá 50ml/ngày đối với trẻ vị thành niên.
  • Dimeticon (dạng gel hay bột), được sử dụng với liều 1-8g/ngày tùy theo tuổi.
  • Cholestyramine, được dùng trong trường hợp trào dịch mật tá tràng dạ dày thực quản (dịch kiềm), với liều 4-16g/ngày.
Biệt dược Liều lượng Cách sử dụng
Alumnium và Magnesium Hydroxydes Maalox 1-2ml/kg/ng
<50ml/ngày
30 phút sau bữa ăn
Aluminium Phosphate Phosphalugel 1-2ml/kg/ng
<50ml/ngày
30 phút sau bữa ăn
Dimeticone Polysilane gel 1-8g/ngày hay
1mcp-1gói,3-4 lần/ng
20-30 phút sau bữa ăn
Acide Alginique
Alginate de Sodium
Gaviscon 30-100mg/kg/ng
+Nhũ nhi: ½-2 mcp
+Trẻ lớn: ½-1 gói
5-10phút sau bữa ăn
Smectites
Argiles
Smecta
Actapulgite
3û-10g/ngày
+Nhũ nhi: ½-2 mcp
+Trẻ lớn: ½-1 gói
15 phút sau bữa ăn

Bước 2: Thuốc tăng áp lực cơ vòng thực quản dưới:
- Tiếp bước 1, nếu không hiệu quả (1-3 tuần).
- Trào ngược có biến chứng viêm thực quản (1-3 tháng).
- Những biểu hiện không điển hình của trào ngược với pH bất thường (6-12 tháng).
- Mectoclopramide và các chế phẩm làm tăng rõ rệt áp lực cơ vòng thực quản dưới, tăng tống xuất dạ dày do tác dụng trung tâm và ngoại biên cơ vòng ruột bằng cách ức chế trương lực Dopaminergique, giải phóng Acetylcholine. Tác dụng phụ là Methemoglobine ở trẻ sơ sinh và hội chứng ngoại tháp. Liều luợng 0,5mg/kg/ngày được dùng 15-20 phút trước bữa ăn.
- Trimebutine, cạnh tranh với Acetylcholine ở đám rối thần kinh nội tại, nó làm tăng trương lực cơ vòng thực quản dưới, tăng tống xuất dạ dày, điều hòa những phức hợp vận động, dùng 3-4 lần trước bữa ăn với liều 5mg/kg/ngày.
- Domperidone, cùng tác động như trên, nhưng không có tác dụng phụ do không vượt qua được hàng rào máu não, liều dùng 1-2mg/kg/ngày 3-4 lần trước bữa ăn.
- Cisapride kích thích hoạt động đường tiêu hóa trên bởi hiệu quả cholinergique gián tiếp, mà nó tác dụng trên đám rối thần kinh ruột. Hiện nay, không còn dùng do tác dụng phụ gây xoắn đỉnh ở những bệnh nhân có QT kéo dài.
- Erythromycine, tăng co thắt thực quản và hang vị, làm tăng tống xuất dạ dày, hoạt tính prokinetic được thấy ở nồng độ 1-3mg/kg/ngày, có nghĩa là dưới 25% liều cần thiết cho việc điều trị chống nhiễm khuẩn.
Biệt dược Liều lượng Cách dùng
METOCLOPRAMIDE PRIMPERAN 0,5mg/kg/ngày
5 giọt/kg/ngày
15-20 ph trước bữa ăn
METOPIMAZINE VOGALENE 1mg/kg/ngày
10 giọt/kg/ngày
15-20 ph trước bữa ăn
TRIMEBUTINE DEBRIDAT 5mg/kg/ngày
½-2 mcf 3 lần/ng
3 lần ngay trước khi bú
DOMPERIDONE MOTILIUM 1-2mg/kg/ngày 3 lần ngay trước khi bú
CISAPRIDE PREPULSIDE 0,8-1,2mg/kg/ngày 3 lần ngay trước khi bú
Bước 3: Thuốc ức chế hay kìm hãm sự bài tiết acide:
- Trào ngược có biến chứng viêm thực quản (4-12 tuần)
- Thuốc Cimetidine, Ranitidine, Famotidine ức chế các thụ thể H2. Làm giảm bài tiết dịch dạ dày. Tác dụng phụ của Cimetidine là tiêu chảy, rash, đau cơ, lú lẫn, giảm bạch cầu, nhũ hóa tuyến vú(Gynecomastie), test chức năng gan tăng và ù tai. Cimetidine được sử dụng với liều 30-40 mg/kg/ngày chia 3-4 lần.
- Ranitidine gây nhức đầu, rối loạn tiêu hóa, malaise, buồn ngủ, đau khớp và độc tính gan, Ranitidine được sử dụng với liều 5-15mg/kg/ngày.
- Famotidine có thể gây nhức đầu, ù tai, táo bón, tiêu chảy.
- Omeprazole, ức chế pompe proton rất hiệu quả trong điều trị viêm thực quản do trào ngược. Tác dụng phụ gồm nhức đầu, tiêu chảy, buồn nôn và ói mữa.
Biệt dược Liều lượng Cách dùng
CIMETIDINE EDALENE
TAGAMET
30-40mg/kg/ngày Uống 4 lần: 3 lần theo bữa ăn chính và 1 lần trước khi ngủ
RANITIDINE AZANTAC
RANIPLEX
5-15mg/kg/ngày Uống sáng và tối hay 1 lần trước khi đi ngủ
FAMOTIDINE 1-1,2mg/kg/ngày Uống 2 lần/ngày
OMERAOLE LOSEC 0,8mg/kg/ngày Uống 1 lần buổi tối
Bước 4: Phẫu thuật Nissen
Chỉ định can thiệp ngoại khoa nói chung khi không đáp ứng điều trị nội khoa hoặc biểu hiện "malaise" và nguy cơ đột tử, hoặc:
- Biến chứng về dinh dưỡng (suy dinh dưỡng)
- Biến chứng đường hô hấp
- Trào ngược nặng ở trẻ bệnh lý não
- Những biến chứng ngoại khoa thoát vị khe thực quản tái phát, vẫn còn trào ngược DD-TQ kéo dài, khó ợ hơi và khó tiêu. Hội chứng Dumping thoáng qua cũng được ghi nhận khoảng 10% trường hợp.

Kết luận

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản rất thường gặp ở trẻ em, bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, có thể gây nhiều biến chứng đáng lo ngại. Phép đo pH kế được xem như tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán RGO, tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, siêu âm vẫn còn tỏ ra có nhiều hữu ích, nếu được thực hiện bởi những người đã được huấn luyện và kiên nhẫn, nó cho phép khảo sát về hình dạng và động học cũng như định hướng bệnh nguyên của RGO. Nên được thực hiện đầu tiên trước bệnh nhân, nghi ngờ trào ngược dạ dày thực quản cũng như bệnh nhân nôn ói kéo dài.

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Trào ngược dạ dày thực quản dễ gây hen suyễn


Mắc chứng trào ngược dạ dày thực quản, lại thêm bệnh hen suyễn nên bé trai nhà chị Thu, quận Bình Tân, TP HCM gầy nhom. Chị đã thử đủ cách nhưng mỗi lần ăn cái gì vào là bé lại nôn ói hết cả ra, ho sặc sụa. Đi khám bác sĩ uống thuốc 2 tháng nay nhưng tình trạng bé vẫn chưa cải thiện.
"Đút chén cháo cho con cả buổi trời, có khi vừa đút được muỗng cuối cùng là con ói trào ra hết, vừa xót con, vừa bực cả mình, mỗi bữa ăn của con là cả nhà cứ phải ầm ĩ cả lên vì tiếng con khóc, tiếng mẹ quát tháo. Nấu cháo cũng phải nhiều để lỡ con có ói thì có thứ để ăn tiếp", chị Thu thở dài ngao ngán.

8 dấu hiệu mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản


8 dấu hiệu mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Một vài người dễ lầm tưởng đau ngực là triệu chứng riêng biệt của bệnh đau tim, khàn giọng, ho là dấu hiệu của cảm lạnh. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng cũng là biểu hiện của chứng trào ngược dạ dày thực quản.
1. Đau ngực
Hiện tượng đau, tức lồng ngực thường xảy ra do axit dạ dày trào sang thực quản. Đây là một trong những triệu chứng cơ bản nhất của bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Tuy nhiên, cơn đau có thể kéo dài lâu hơn và mạnh hơn tưởng tượng. Bởi vậy, một số người thường lầm tưởng ợ nóng với bệnh đau tim.
2. Ợ nóng nhiều hơn khi nằm nghỉ
Axit trong dạ dày trào lên thực quản nhiều hơn khi chúng ta nằm hoặc cúi người, từ đó gây ra chứng ợ nóng. Theo TS Walter J. Coyle, chuyên gia về dạ dày - ruột tại Torrey Pines Clinic (California, Mỹ): "Khi đứng thẳng, trọng lực giúp giữ thức ăn nằm yên trong dạ dày. Khi trọng lực giảm, hiện tượng trào ngược dễ xảy ra hơn". Đó là lý do tại sao những người bị ợ nóng mạn tính thường phải kê cao đầu khi nằm ngủ và không nên ăn nhiều vào buổi tối trước khi đi ngủ.
3. Đau do ợ nóng sau khi ăn
Hiện tượng đau ngay sau khi ăn, đặc biệt là sau khi ăn nhiều, thường do dạ dày bị quá tải, không còn chỗ chứa, khiến dịch vị và thức ăn bị trào ngược lên. Theo TS Coyle, tốt nhất là không ăn quá nhiều, tránh ăn các loại thực phẩm giàu chất béo, hạn chế sử dụng rượu và thuốc lá và không nên ngồi ngả người ra phía sau khi ăn xong.
4. Đắng miệng
Trong một số trường hợp, acid dạ dày có thể trào ngược lên tới cuống họng, tạo ra vị đắng trong miệng, thậm chí có thể gây ngạt. Nếu có hiện tượng này, nhất là vào buổi đêm, nên tới gặp bác sĩ. Theo TS Coyle, một số loại thuốc ức chế enzym dạ dày và giảm độ axit trong dạ dày rất có hiệu quả trong trường hợp này.
Khàn giọng, đau họng, ho, hen là dấu hiệu của trào ngược thực quản dạ dày. (Ảnh minh họa)
5. Khàn giọng, đau họng, ho, hen
Theo TS Pfanner, chuyên gia dạ dày - ruột tại Texas (Mỹ), axit dạ dày trào lên thực quản sẽ làm tấy dây thanh. Khác với khi bị cảm lạnh, đau họng hoặc ho do axit dạ dày trào ngược có thể trở nên mạn tính, lâu ngày có thể chuyển biến thành bệnh hen. Nên thận trọng khi bị khàn giọng hoặc đau họng, nhất là khi hiện tượng xuất hiện sau khi ăn hoặc không đi kèm với các triệu chứng khác như hắt hơi, sổ mũi. Đây rất có thể là biểu hiện của chứng trào ngược dạ dày thực quản.
6. Buồn nôn
Có nhiều tác nhân gây ra tình trạng buồn nôn nên rất khó để có thể khẳng định đây là một thuộc tính của chứng trào ngược acid dạ dày. Tuy nhiên, theo TS Coyle: "Với một số bệnh nhân, triệu chứng duy nhất của chứng trào ngược axit dạ dày mà họ mắc phải là buồn nôn. Nếu cảm thấy nôn nao mà không hiểu tại sao, đó có thể là do hiện tượng trào ngược". Nếu tình trạng này diễn ra ngay sau khi ăn, khả năng bị trào ngược axit dạ dày là khá lớn. Trong trường hợp này, những loại thuốc làm giảm độ axit trong dạ dày sẽ giúp làm giảm cảm giác khó chịu.
Buồn nôn là dấu hiệu của trào ngược thực quản dạ dày. (Ảnh minh họa)
7. Nhiều nước bọt
Theo TS Coyle, lượng nước bọt tiết ra trong miệng nhiều hơn cũng là một triệu chứng đáng chú ý của chứng trào ngược axit dạ dày. Thực chất, đây là một dạng khác của chứng ợ nóng. Khi gặp phải triệu chứng này, người bệnh sẽ có trạng thái thần kinh và phản xạ tương tự như khi bị nôn.
8. Khó nuốt
Hiện tượng trào ngược dạ dày thực quản lặp lại nhiều lần, theo thời gian, sẽ gây ra tổn hại nhất định cho thực quản. Theo TS Pfanner, axit bị trào ngược có thể làm sưng tấy mô thực quản dưới, từ đó làm hẹp thực quản và gây ra tình trạng khó nuốt.